Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Sức lan tỏa toàn vùng


Sau hơn 3 năm thực hành xây dựng chương trình nông thôn mới, nông thôn Nam Bộ đã có những điểm gì mới, thưa ông?

Kết quả ba năm xây dựng và hơn hai năm khai triển thực hiện xây dựng nông thôn mới (NTM) tại 2 xã điểm Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang (tỉnh Trà Vinh), xã Định Hòa, huyện Gò Quao (tỉnh Kiên Giang) và huyện Phước Long, (tỉnh Bạc Liêu) do Trung ương chỉ đạo, cho thấy thời gian qua hầu hết các địa phương trong vùng đã tổ chức thực hành nghiêm chỉnh, đúng kế hoạch của BCĐ Trung ương về xây dựng NTM và kế hoạch của các tỉnh đề ra. Ban Chỉ đạo xây dựng NTM được kiện toàn và phân công nhiệm vụ cho các sở, ngành gánh vác. Công tác xây dựng đề án quy hoạch tổng thể xây dựng NTM thời đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020 được các tỉnh, thành khẩn trương tiến hành và triển khai thực hiện.


Thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp.Ảnh: Lê Hiền


Đến nay tỉnh An Giang đã hoàn thành 100% công tác quy hoạch các xã. Các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre, Trà Vinh cũng đã hoàn thành trong quý I/2012. Riêng các tỉnh, thành còn lại hoàn thành trong quý II/2012). Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân có nhiều sáng tạo, tạo được sự đồng thuận của toàn từng lớp tham gia thực hiện chương trình. Các xã xây dựng NTM có sự chuyển biến rõ nét, các tiêu chí đạt được ngày càng tăng, nhận thức của người dân nông thôn đã đổi thay trong việc góp công sức, tiền, nguyên liệu xây dựng và hiến đất để xây dựng các công trình NTM.

Trong 2 năm huyện điểm Phước Long (Bạc Liêu) huy động trên 1.765 tỷ đồng, trong đó Vốn chương trình đích quốc gia XDNTN là 11 tỷ 635 triệu đồng, vốn tín dụng 768 tỷ đồng, vốn doanh nghiệp gần 17 tỷ đồng; vốn quần chúng đầu tư sản xuất 760 tỷ đồng; vốn dân chúng đóng góp 73 tỷ 283 triệu đồng; vốn vận động quỹ An sinh xã hội - Xây dựng NTM 39 tỷ đồng...


Chương trình đã tạo ra công lan tỏa trong vùng, hình thành mô hình NTM với sức sinh sản phát triển, hình thành được các vùng sinh sản hàng hóa, thu nhập của người dân được tăng lên, kết cấu hạ tầng thiết yếu ở tuyến xã được cải tạo, nâng cấp khá đồng bộ đã làm thay đổi rõ nét dung mạo nông thôn. Đến nay, các xã trong vùng đều có đường ô tô về đến trọng điểm xã, các ấp đều có đường liên ấp bảo đảm xe 2 bánh đi lại dễ dàng vào mùa mưa; các xã hoàn thành công tác phổ cập GDTH, THCS, tỷ lệ học trò đến trường bình quân 96%; tỷ lệ cần lao qua đào tạo ước đạt trên 40%; trên 90% các xã đều có điểm phục vụ bưu chính - viễn thông và các điểm truy cập Internet. An ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội căn bản được ổn định. Các địa phương quan hoài kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với công tác bảo đảm an ninh, quốc phòng, thực hành tốt chính sách hậu phương quân đội, góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế - tầng lớp.

Thực tiễn cho thấy nhiều tiêu chí còn chưa hợp lý, quá trình khai triển ở nhiều địa phương vẫn gặp nhiều khó khăn, ông nghĩ sao về vấn đề này?

Đúng là bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn tồn tại một số hạn chế trong việc khai triển, đó là mô hình NTM tuy đã hình thành nhưng bước đầu bộc lộ những điểm chưa hợp lý trên mặt tổng thể cũng như từng địa phương, nhất là các tiêu chí về thu nhập, cơ cấu cần lao, nhà ở dân cư, hệ thống thủy lợi, chợ nông thôn, môi trường... Một số địa phương trong vùng còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, như việc khai triển công tác lập quy hoạch chậm, đội ngũ cán bộ triển khai chương trình từ Trung ương đến địa phương (tỉnh, huyện, xã) còn thiếu về số lượng cán bộ chuyên trách và năng lực còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhiệm vụ được giao, còn thụ động trong qua trình triển khai thực hành. Công tác tuyên truyền còn nhiều bất cập, một số lãnh đạo cơ sở chưa nhận thức đầy đủ về chương trình mục tiêu nhà nước về xây dựng NTM. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí eo hẹp, ngân sách Trung ương phân bổ chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở các địa phương. Hệ thống cơ sở vật chất chưa đạt chuẩn, ngân sách quốc gia đầu tư cho giao thông nông thôn còn rất hạn chế, đặc biệt là hệ thống giao thông liên ấp, đường liên lạc đến trọng tâm, một số nơi đã bị xuống cấp, giờ có 91 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã. Hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu, ngăn chặn xâm nhập mặn chưa đáp ứng yêu cầu. Tỷ lệ cần lao qua đào tạo nghề còn thấp, công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm vẫn còn nhiều hạn chế, các giải pháp hỗ trợ người nghèo đôi lúc còn lúng túng, còn hạn chế về tính hiệu quả. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch hợp vệ sinh (theo quy chuẩn của Bộ Y tế) còn thấp, có địa phương chỉ đạt 50% (Sóc Trăng: 26%; An Giang 47%); tỷ lệ hộ dân có hố tiêu hợp vệ sinh đạt chuẩn dưới 50%.

Theo ông Chính phủ và các ngành chức năng cần làm gì để việc khai triển thực hiện xây dựng NTM đạt hiệu quả tốt hơn?

Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ trong vai trò, nghĩa vụ của mình, đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức các đoàn khảo sát tại một địa phương trong vùng nhằm đánh giá việc triển khai thực hành xây dựng NTM từ đó có kiến nghị, đề xuất với Trung ương điều chỉnh một số tiêu chí cơ bản thích hợp với thực tiễn của vùng. Mặc dù Chính phủ đã ban hành Quyết định sửa đổi một số tiêu chí trong bộ tiêu chí nhà nước về NTM, nhưng theo tôi, các bộ ngành can dự cần tiếp rà soát lại các tiêu chí quốc gia về NTM. Trên cơ sở thực tại khai triển, để tiếp tục kiến nghị, điều chỉnh một số tiêu chí phù hợp với điều kiện tình hình của vùng miền.


Các bộ, ngành Trung ương có liên tưởng cần tụ hợp đầu tư các dự án phát triển các cây giống, con giống (heo, bò,...) Đảm bảo đủ số lượng, chất lượng và năng suất cao để cung cấp kịp thời cho nhu cầu phát triển của các địa phương. Cần bố trí cán bộ chuyên trách về công tác xây dựng NTM cho huyện, xã. UBND các tỉnh, thành chỉ đạo các địa phương quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và quốc gia và sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng NTM, để mục tiêu đến 2015 phải có trên 20% số xã đạt chuẩn và đến 2020 phải có trên 50% số xã đạt tiêu chuẩn NTM.

Xin trân trọng cảm ơn ông.


Lê Hiền(thực hiện)