Đại tá Nguyễn Văn Chức, nguyên Ủy viên Ban An ninh miền Trung – Trung Bộ mở đầu câu chuyện: “cuộc thế chúng tôi có gì đặc biệt đâu, chiến tranh thì ai cũng thế, ra chiến trận ai chả đánh giặc, không đánh giặc thì chịu chết à!”. Chất giọng miền Trung vẫn đặc sánh nơi ông. Chất tính cách thẳng ngay, thường xuyên, quyết liệt của người con quê hương Bình Định tuồng như chưa bao giờ phai lạt ở cựu sỹ quan Công an này. Sống ở Hà Nội nhưng có lẽ trong lòng cán bộ Công an lão thành này chưa một lúc nào nguôi khắc khoải nhớ về quê hương Bình Định yêu dấu đã thắp lên trong ông ngọn lửa cách mạng từ ngày còn thơ bé. Cuộc đời ông là những chuyến đi dặm dài khói lửa. Sau năm 1954, ông tụ hợp ra Bắc và khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra ác liệt thì ông lại trở về vùng đất miền Trung để đương đầu.
Đại tá Nguyễn Văn Chức gắn bó gần 30 năm trong Công an quần chúng (CAND) vũ trang (quân nhân Biên phòng sau này). Năm 1983, Đại tá Nguyễn Văn Chức giữ chức Cục trưởng Cục thám thính Biên phòng… Nhớ lại thế cuộc cách mạng của mình, ông bổi hổi kể, năm 1949, ông đi lính, sang Lào, tham dự quân tình nguyện, ông làm chính trị viên đại đội, từng được dự Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào. Sau đó năm 1958, khi lực lượng CAND vũ trang thành lập, ông được cấp trên điều động sang lực lượng non trẻ này. Ông được giao cùng với đồng đội xây dựng lực lượng CAND vũ trang khu V, làm công tác an ninh diệt ác, phá kìm, phá các ấp chiến lược của giặc Mỹ. Thời điểm này, ông đã đặt chân khắp các vùng đất khói lửa như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Tây Nguyên…, máu nóng làm sao gây dựng được lực lượng CAND vũ trang tại chỗ đủ sức mạnh để thắng lợi giặc Mỹ. Ông đã xuống từng địa phương, thôn làng xây dựng an ninh vũ trang, vận động chọn lọc, huấn luyện nghiệp vụ Công an cho cán bộ trẻ… Gần 10 năm đằng đẵng, Đại tá Nguyễn Văn Chức đã hoàn tất xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần nhỏ bé xây dựng lực lượng CAND vũ trang vững mạnh. Đến cuối năm 1967, đầu năm 1968, khi mặt trận miền Nam đỏ lửa thì ông lại trở lại miền Nam. Lúc đó, vợ ông đang mang thai đứa con thứ 2, trong lòng ông cũng quyến luyến lắm nhưng sứ mệnh bảo vệ sơn hà linh đã lấn lướt tình cảm riêng tây. Đoàn của ông có 50 người, chặng đường dặm dài vào miền Trung chỉ có rau rừng làm bạn, có chiến sỹ trẻ chưa ăn cơm được bữa nào, chỉ ăn rau rừng đã ngã xuống. Có người tối nay còn đang đương đầu, cùng bàn kế hoạch đánh địch, sáng mai đã vĩnh viễn từ giã anh em đồng chí. Những vùng đất ông đặt chân qua như Cầu Cẩm, Phương Tích, Rú Ngọc, Truông Bồn, phà Nam Đàn, phà Bến Thủy, bến Linh Cảm… không ngày nào không có bom đạn, địch còn thả cả bom nổ chậm, bom dây, bom lân tinh, bom từ trường. Đại tá Nguyễn Văn Chức nhớ lại: “Tôi là một trong những người may mắn được đóng góp, chứng kiến, được chia sẻ niềm vui trong thời khắc lịch sử thiêng liêng trên vùng đất Bắc Tây Nguyên mùa xuân năm 1972… Trước đó, tôi cùng một số anh em phòng B8 – An ninh vũ trang và phòng B3 – điệp báo và an ninh đô thị được phái lên Kon Tum nhận nhiệm vụ, cùng An ninh tỉnh phối hợp với các lực lượng tổ chức bảo vệ các hoạt động quân sự phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ, tiếp quản, quản lý vùng mới phóng thích. Lúc này tôi đã là Ủy viên Ban An ninh khu, cùng anh em khăn gói đến Sở chỉ huy chiến dịch, lúc này chiến dịch chỉ chờ đến giờ G là nổ súng”. Trong chiến dịch giải phóng Đắk Tô – Tân Cảnh, ông đã có mặt trong lực lượng An ninh vũ trang, trinh sát viên vũ trang kết hợp cùng các đội công tác của huyện, bí hiểm sát cánh với đội ngũ cơ sở chính trị, du kích mật tại chỗ, vận động bà con diệt ác trừ gian, tấn công chính trị, phá ấp chiến lược… 11h ngày 24/4/1972, chiến dịch giải phóng Đắk Tô – Tân Cảnh toàn thắng. Sau đó, ông được lệnh trở về An ninh khu… Kể lại kỷ niệm tuyệt đẹp trong đời người lính, vị Đại tá già lại phấn khởi: “Năm tháng qua đi, cục diện chiến trường miền Trung cứ ngày một khởi sắc. Sau giải phóng Đắk Tô, Tân Cảnh đến Quế Sơn, Thượng Đức, phong trào diệt ác lan vào thị xã, quận lỵ… Tiếp bước quân phóng thích, các đơn vị an ninh, an ninh vũ trang cùng các ngành dân chính đảng từ Hải Vân kéo vào, từ Hội An kéo ra, nao nức hướng về đô thị, cùng lo toan một nhiệm vụ trọng đại. Từ đèo Hải Vân cao vời vợi, nhìn về thành thị quê hương thân yêu, lòng chúng tôi trào dâng một niềm sung sướng đến nghẹn ngào”…
|