Tại mục từ TĨNH. 50. Các tác giả đã không nhận thấy sự khác nhau về văn tự học của tên người: 慧竫 (Tuệ Tĩnh) và 慧凈 (Tuệ Tịnh). Theo Hán ngữ đại tự vị. ). Chính thành thử. 5 Bia 嚴光禪寺天臺柱記。永盛貳年。 Bia興功造殿碑嚴光禪寺記。永盛八年。 Bia 嚴光禪寺名藍古跡興功構作聖象碑記. Không bị tạp nhiễm. Nhưng vị thiền sư này không phải là y sư Tuệ Tĩnh mà lâu nay mọi người vẫn nhắc đến.
Ông tu theo dòng Lâm Tế hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà Ma Kha Tì Khưu Nghệ Ngu Hòa thượng. Nghĩa thứ năm là thuật ngữ của nhà Phật trỏ “trừ bỏ dục vọng. Khác với cách phiên của hai tác giả Hà Văn Tấn và Đỗ Tất Lợi. Vậy ông chết vào năm nào. Dòng ghi niên đại của bia ở mặt cuối : Vĩnh Thịnh thập tam niên tam nguyệt thập nhị nhật (Vĩnh Thịnh năm thứ 13 tháng 3 ngày 12). 43 2 thực tiễn. 62.
Nxb Thế giới. Tái bản 2010. Khác hẳn với tự hiệu của vị y sư nức danh là Hồng Nghĩa - Thận Trai - Tráng Tử - Vô Dật - Tuệ Tĩnh (洪義-慎齋-戇子-無逸- 慧靖). Tuệ Tĩnh-thiền sư-y sư nức danh và Tuệ Tịnh là hai người khác nhau.
Về nhân vật lịch sử Tuệ Tĩnh. Nhìn vào số lượng học giả dự cuộc tranh biện này. Thì được biết trước đó. Lặng. Tuệ Tĩnh sinh và hoạt động ở thế kỷ nào? tùng san Nghiên cứu Lịch sử. Chúng tôi cho rằng có hai thiền sư (Tuệ Tĩnh/ Tuệ Tịnh) khác nhau bởi các nội dung được đề cập qua tư liệu văn bia tại chùa Giám (Cẩm Giàng.
Đệ tử truyền thừa là ngài Như Ứng hiệu Tuệ Phái lên trụ trì bèn dựng bia9. 60. (1986). Hà Văn Tấn cho rằng ông sống vào thế kỷ XVII. (1994). Như vậy là thiền sư Tuệ Tĩnh có cái tên đầy đủ là Chân An Giác Tính Tuệ Tĩnh. Chúng tôi đồng ý với cách lý giải của nhóm Mai Hồng. Như ta đã thấy. Chân An. Có khả năng Chân An Tuệ Tịnh chính là người cho dựng tòa cửu phẩm liên hoa tại chùa Giám.
Hà Văn Tấn cũng dựa trên các cứ liệu bi kí tại chùa Giám cho rằng Tuệ Tĩnh sống vào quãng giai đoạn cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.
May thay. Lúc đó ông đã chết. Từ văn bản học. Mai Hồng. Nguyên văn chữ Hán là 詣愚. Để giám định lại vấn đề văn bản học. Là không có chuyện ông đi học. Âm Hán Việt là Nghệ ngu. Sau khi đã khảo sát hiện vật gốc. Chúng tôi đã xuống tận di tích để nghiên cứu các bia ký tại chùa Giám viết về Tuệ Tĩnh. Còn Tuệ Tĩnh là ai. 9 Bia Nghiêm Quang thiền tự - Danh lam cổ tích - Hưng công cấu tác - Thánh Tượng bi ký.
Một số khác như Hồng Sơn. Hải Dương. Vì bia ghi công Tuệ Tĩnh xây dựng chùa vào năm 1717. Nxb KHXH. Khách thập phương cũng các đài truyền hình Trung ương và địa phương vẫn cứ mặc định rằng Tuệ Tĩnh là vị tổ khai sơn của chùa Giám.
Hải Dương) không hề có thông báo nào trùng khít với hành trạng và trứ tác của Tráng Tử Vô Dật Tuệ Tĩnh. Chữ Hán viết khác nhau. ”. 256-257. Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng 8. Sau khi hoàn tất. Tuệ Tĩnh hay Tuệ Tịnh? Khi giám định và khai hoang các văn bia tại chùa Giám.
Hà Nội. Ông hưng công đúc một tòa hai pho thánh tượng Giác hoa Mục Liên toàn bằng vàng. Trái với động. Năm 2005. Tức Tuệ Tĩnh. Hán ngữ đại tự điển (tụ tập). 40. Tùng san Nghiên cứu Tuệ Tĩnh số 01(272)/1994. Sau Đỗ Tất Lợi bảy năm. Như vậy. Chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh). Năm Tân Mão (1711).
Như câu: lục căn đã tịnh”. Điều này dẫn đến hệ quả là bây giờ. Bài viết này sẽ góp thêm một ngôn ngữ trên cơ sở khai phá các sử liệu cổ có đề cập đến nhân vật này. Theo cây hương và văn bia có tại chùa Giám thì Chân An Tuệ Tịnh đã “hun tàng ở trời Tây.
Năm ấy Tuệ Tĩnh đã 80 - 90 tuổi thì Tuệ Tĩnh sinh vào khoảng giữa 1627 đến 1637. Đỗ Tất Lợi. Kết quả giám định sẽ được biểu hiện như dưới đây. Những viện dẫn bi ký được coi như những sử liệu quan trọng để đưa ra những kết luận rốt cuộc: Tuệ Tĩnh sống vào thế kỷ XVII.
(1995. Những học giả nổi tiếng như Dương Quảng Hàm. Đến đây. 7 嚴光禪寺天臺柱記。永盛貳年。Vĩnh Thịnh thứ 2 (1706) 8 Tham khảo Trang Thanh Hiền.
Bài viết đã lược thuật lại ý kiến cho rằng Tuệ Tĩnh là nhân vật của thế kỷ XVII. Thế nhưng. Nay cải chính. Trong đó ghi: “tĩnh: an.
Số 3 (228)/1986. Ông viết: “với lời văn bia này. Đáng mừng là trên một cây hương (cột thiên đài) bằng đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 2 (1706) có dòng chữ: hưng công hội thủ uẩn tồn tây thổ tự ấu xuống tóc tiệm tu giới hạnh Trúc lâm đầu đà Ma ha tỉ khâu Chỉ Ngu 2 hòa thượng sa môn Chân An. V. Thư tịch học như Trần Văn Giáp. Những chứng dẫn về tên tự biệt hiệu này cho thấy Tuệ Tĩnh và Tuệ Tịnh là hai người khác nhau.
Viện dẫn mà Đỗ Tất Lợi dựa vào là tư liệu văn bia chùa Giám (chùa Hải Triều. Nghĩa là trước Hải Thượng Lãn Ông một thế kỷ” 1. (1992). Nghĩa là “lục căn đã bị trừ bỏ” 6. Như vậy tên vị thiền sư được khắc trên ba bi kí5 tại chùa Nghiêm Quang (chùa Giám) là 慧净 (TUỆ TỊNH). Tịch tĩnh. Chúng tôi tiếp chuyện tìm hiểu lịch sử vấn đề. 永盛十三年 6 Nhiều tác giả. ---- 1 Đỗ Tất Lợi.
V. Nam dược thần tình. Chúng tôi thấy có một lầm lẫn đã xảy ra. Những bài viết của Đỗ Tất Lợi và Hà Văn Tấn. 50. Tuệ Tĩnh vào đầu thế kỷ XVIII còn được chúa Trịnh ban cho thụy hiệu là Giác Tư. Lập luận của hai tác giả Hà Văn Tấn và Đỗ Tất Lợi khi khai thác tài liệu bi kí địa phương khó có thể đứng vững khi các tác giả đọc nhầm pháp hiệu có tự dạng và âm đọc gần giống nhau. Hải Dương phong vật chí.
Bia có 4 mặt. Tư niên thần đệ tử trụ trì tăng sa di tự Như Ứng hiệu Tuệ Phái kiến lập sao văn tự lưu truyền cổ tích dĩ hậu lai tri (Năm Quý Tỵ tôn sư tịch. Bia chùa Giám với Thiền sư Tuệ Tĩnh. Tập tính thiết) có tức thị yên tĩnh. Tr. Tứ Xuyên từ thư xuất bản xã & Hồ Bắc từ thư xuất bản xã tr. Thiền sư Tuệ Tịnh thế kỷ XVII-XVIII có hiệu là Chân An Giác Tính Tuệ Tịnh (真安覺性慧净).
2010. 1652. Mai Hồng; văn học sử như Dương Quảng Hàm; lịch sử Phật giáo Việt Nam như Nguyễn Lang; cho đến khảo cổ học lịch sử như Hà Văn Tấn; y dược khoa cựu truyền như Đỗ Tất Lợi. Chúng tôi thấy rằng. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của nhân vật lịch sử Tuệ Tĩnh.
Đỗ Tất Lợi. Tật sính thiết ) có tức là thanh tịnh. Lập luận của ông như sau: “Rất may là tấm bia Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717) vẫn còn vẹn nguyên. Và đặt tên sách của ông là Hồng Nghĩa Giác Tư y thư. Là một tên hiệu khiêm xưng tự trọng. Ngoại giả. Chùa Giám. Có thể nhất thời đi đến nhận định rằng. Dù rằng. Trước nhất là nói đến lần đúc tượng Quan Âm 24 tay vào năm Tân Mão (1711).
4 Mai Hồng & Phó Đức Thảo. Tr. Trần Văn Giáp. “Nghiêm sư” đó là ai? Trong danh sách những người bỏ công của để làm việc này. Chữ Tĩnh viết Lập 立 với Thanh 青 (靖) hay Thanh với Tranh 爭 (静 âm là Tĩnh. Âm thì rưa rứa giống nhau. Hai học giả uy quyền của thế kỷ XX. Lê Trần Đức cho rằng ông sống vào thế kỷ XIV thuộc đời Trần. Ông có những đóng góp gì cho lịch sử văn hóa Việt Nam? Vấn đề này chúng tôi xin được tả trong bài viết sau.
Tr. Chúng ta thấy họ đều là các chuyên gia của nhiều chuyên ngành khác nhau.
Từ nhỏ xuống tóc. Chữ lớn đề tên bia chạy quanh 4 mặt: Nghiêm Quang thiền tự danh lam cổ tích hưng công cấu tác thánh tượng bi ký. Qua câu này ta thấy Tuệ Tĩnh đã xuống tóc từ bé. Đã đứng đầu trong việc đúc tượng Quan Âm năm 1711.
Ta gặp dòng đầu ghi Hưng công hội chủ sa môn Chân An Giác Tính Tuệ Tĩnh thiền sư. Bia nói về những lần tạo tượng ở trong chùa. Ở mặt bia bên cạnh có câu ghi rõ: Quý tỵ niên tôn sư tịch mịch. Như vậy. Chúng tôi không phủ nhận rằng có một thiền sư từng tu tập tại chùa Giám vào thế kỷ XVII.
Vốn ghép từ hai địa danh Nghĩa Phú và Thượng Hồng (hai địa danh thời Trần. Chữ Tịnh viết Băng với Tranh (净 âm là Tịnh. Nhân vật lịch sử của thế kỷ XVII-XVIII? Giả thuyết này được khá nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ. Trên đây. Chỉ có một chi tiết trùng hợp ngẫu nhiên là Chân An Giác Tính Tuệ Tịnh tu hành ngay tại quê hương của Tráng Tử Vô Dật Tuệ Tĩnh.
Tr. Làm quan. Không biết dựa vào nguồn sử liệu nào ghi ông thọ 80 - 90 tuổi. Hai người có biệt hiệu. Các tác giả chưa đề cập đến các thư tịch thành văn khác. Dần tu giới hạnh” 7. Sđd. Thành ra. 10 Theo Trang Thanh Hiền. Và mất đầu thế kỷ XVIII. Cửu phẩm liên hoa trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam.
Còn danh y đời trước làm thuốc ở chùa ấy có để lại sách thuốc và đã giảng nghĩa sách Thiền tông khóa hư lục là Thận Trai Tráng Tử Vô Dật Tuệ Tĩnh. Quê quán ở đâu. Quốc sử di biên. Hay chùa An Trang. Nghĩa của hai chữ trên khá gần với nhau. 3 Hà Văn Tấn. Chùa lập bia thì nghiêm sư đã tịch. Nghĩa khác nhau.
Lê Trần Đức. Rồi mới xuống tóc và chết ở Trung Quốc như truyền thuyết đã nói” 3. Vậy là có thể biết Tuệ Tĩnh mất năm Quý Tỵ tức năm 1713 v. Bản tự đã phỏng theo tượng của Tuệ Tĩnh tại nghè Giám để làm một tượng mới và đặt thờ Tuệ Tĩnh ngay tại nhà tổ10 thay vì tượng Tuệ Tịnh. Mà biệt hiệu của mỗi người có sáu chữ thì khác nhau rõ rệt” 4. Tuệ Tịnh là ai? tạm bợ ta chưa biết thiền sư Tuệ Tịnh tên thật là gì.
Chữ TỊNH nghĩa thứ nhất là “thanh khiết sạch sẽ”. Giống như ba tòa phẩm tại chùa Động Ngọ (Hải Dương). V. Nguyễn Lang. Và có thể dùng thông nghĩa với nhau song chúng có sự khác biệt về tự dạng và âm đọc như đã nêu. Tác giả Mai Hồng và Phó Đức Thảo trong bài Về nhân vật lịch sử Tuệ Tĩnh đã từng trỏ ra sự dị biệt về tự dạng của các chữ này như sau: “Tấm bia này nói về công việc tạc tượng Phật bà Quan Âm.
Trong “Thông báo Khảo cổ học”. Năm 1993. Như các sách Hồng Nghĩa Giác Tư y thư.
Là quê hương của ông). Có người cho là Tuệ Tĩnh vẫn còn sống vào năm lập bia tức 1717. Tên hiệu đầu tiên của Tuệ Tĩnh là Hồng Nghĩa. Tự vị này ghi nhận mười lăm nghĩa. Sơn lại các tượng và tu sửa ở chùa Nghiêm Quang do nhà sư Sa môn Chân An Giác Tính hiệu Tuệ Tịnh chủ trì. Ngay dòng đầu bia cho biết người làm bia là sa di tự Như Ứng hiệu Tuệ Phái. Những người có ngôn ngữ quyết định cuối cùng là Đỗ Tất Lợi và Hà Văn Tấn.
Dựng ngày 12/03 năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717). Chúng ta có thể phần nào đoán được Tuệ Tĩnh sống và hoạt động vào ¾ sau của thế kỷ XVII.
Tr. Năm đó đệ tử là sư trụ trì sa di tự là Như Ứng hiệu là Tuệ Phái dựng (bia) sao lại bài văn để lưu truyền dấu xưa cho mai sau biết). Mà cho rằng ông sinh vào quãng những năm 1620 đến 1630. Đã đặt dấu chấm hết cho những tranh luận trong suốt thế kỷ.
Công việc hoàn thành nhưng chưa kịp làm lễ khánh thành thì đến năm Quý Tỵ (1713) ông đã ngoẻo. Nghiêm Quang thiền tự) ở Cẩm Giàng. Tức thị “đạt đến cảnh giới ngu” (tức một thể ý thức tuệ triết theo quan điểm của nhà chùa).
Ngoài ra còn có hiệu Chân An Giác Tính. Nhưng điều này không đúng.