Tranh: Nguyễn Xuân Hoàng
Hẳn nhiên đó cũng chính là nguyên liệu để Trần Quang Quý viết những câu thơ tình. Giời thương, tuy có kiệm ước nhào nặn vẻ ngoài nhưng lại phóng khoáng ban phát thứ bên trong.
Những câu như “Chân trời chôn dưới đường cày/Trời suông suông vẫn ở ngay trên trời/Lời rơm rạ ngắn mùa dài/Cơm quê một bát đong đầy nỗi quê” hay “Ngày vui khua những dần sàng/Đêm buồn nhắm nháp ngô rang thuốc lào”, ngóng ra cũng chẳng đến nỗi thẹn thùng với Đồng Đức Bốn, kẻ đóng góp nhiều cho thơ lục bát.
Các nhà thơ thường che đậy, thơ tình được viết bằng mường tượng, còn Trần Quang Quý chẳng dại gì nói dối: “Tôi viết bằng cả mường tượng và thực tế”. “Vai nào anh sắm đạt nhất trong thế cuộc?”, hỏi Trần Quang Quý.
Trần Quang Quý không “thần tượng” một thi sĩ cụ thể nào. Thơ Trần Quang Quý trẻ hơn tuổi tác và vẻ ngoài của anh, điều này nhiều người dấn. Nhưng sáng tác văn xuôi cần nhiều thời gian, Trần Quang Quý thì bận bịu, với công việc ở NXB Hội Nhà văn, nơi anh giữ vị trí Phó giám đốc và… chắc cũng còn nhiều câu chuyện can hệ áo cơm khác nữa.
Không nhớ ai đó đã nhận xét rất hay về thơ Trần Quang Quý: Quê nhưng không Mùa. Nhưng thấy tội tội khi tập thơ “Màu tự do của đất” bị lôi ra kính hiển vi, bóc tách từng câu chữ. Nhưng anh cho biết, rất thích chất suy tưởng trong thơ Chế Lan Viên, thuở mới vào nghề, lại mê Exenhin. Anh viện dẫn: “Khi đến thăm bảo tàng, tôi nhìn thấy chiếc gươm, cảm thấy nỗi thống khổ, mất mát. Chẳng biết đến lần sau, Trần Quang Quý có ra tập bút kí kể chuyện ba lần đến nước Mỹ như vị giáo sư nọ không, hay lại thai nghén một chùm thơ quê? Trần Quang Quý sinh ra ở Phú Thọ.
Anh du lãm dưới gầm trời cũng khá, đi rất nhiều nơi, và mới trở về từ Mỹ: “Đây là lần sang Mỹ thứ hai của tôi”. Tôi viết bài thơ “Chiếc gươm trong bảo tàng”, trong đó có câu: “Tiếng nghiến răng lịch sử/ Còn khía những vết thương hòa bình”, thì người ta giễu tôi: Trần Quang Quý cho lịch sử mọc răng”.
Bảo, ở tuổi của anh có lẽ sẽ hợp hơn nếu chuyển sang viết tiểu thuyết? Anh cười: “Đó cũng là một trong những ý định của tôi”. Ngoảnh mặt nhìn người đời thấy lấp lóa những “Siêu thị mặt”. Anh là tác giả của những câu thơ vừa âu yếm, vừa cảm xúc thế này: “Lối vào nhỏ/Căn nhà ta bé nhỏ/Một tiếng guốc khua đã đủ chật rồi/Em nấu bếp nhìn anh trong mắt ướt/Thế là chiều Hà Nội bớt lang thang”.
Anh là tác giả của những tập thơ mang tên lạ: “Siêu thị mặt”, “Giấc mơ hình chiếc thớt”… Tập thơ “Giấc mơ hình chiếc thớt” hội tụ những bài thơ nói đến thân phận của những người yếm thế.
Trong nhân thể thơ êm ái, dễ làm với người trong nghề, Trần Quang Quý đã ráng để giữ nó không trôi đi tuồn tuột dưới ngòi bút của anh. Trần Quang Quý cho rằng, anh sáng tác sung sức nhất trong mười năm trở lại đây, thành quả là những tập thơ nối nhau ra đời: “Giấc mơ hình chiếc thớt” (2003), “Siêu thị mặt” (2006), “Cánh đồng người” (2010), “Màu tự do của đất” (2012).
Nếu cứ xét vẻ ngoài thô mộc, dễ đoán Trần Quang Quý là “người tình chung thủy” của thể thơ tự do nhưng anh cự nự: “Cũng có làm thơ lục bát đó chứ, tôi không “li dị” truyền thống”. Nếu cứ soi lí tí thì đến cả những câu tuyệt bích như “Ô hay, buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông” có khi cũng còn có… vi trùng.
Anh có một đời sống gia đình “không giật gân”, thường nhật như bao người khác, cũng không làm bạn với rượu. Là kẻ ít lấy men rượu làm vui nhưng men say hình dung cũng giúp anh buông mình thả những câu thơ thật là thơ: “Rượu đã thấm/Tóc không bờ mây biếc/Em thôi cười như thuở tẻ trăng/Những ngang ngửa sau một ngày cơm áo/Ta chơ vơ đơn chiếc biết nhường nào”, lại nữa: “Em đến như cổ xưa /Em đến như bóng tối/Tôi như con chim bay lạc giữa sao trời/Trong đáy mắt em vừa chợt mở/Biết dòng sông còn trôi hay không?”.
Thơ đâu phải toán học. Thơ tình không phải nguồn mạch chính trong sáng tác của Trần Quang Quý. Kết quả là, từ khi bắt đầu làm thơ, năm 17 tuổi, đến nay sau vài chục năm, anh đã có gia tài kha khá: 6 tập thơ. Nhìn anh lại nhớ tới câu thơ nức tiếng một thời của Khuất Quang Thụy: “Sống mới khó làm sao/Nữa là còn tranh đấu/Nữa là còn sáng tạo/ Nữa là còn yêu nhau”.
Nỗi ám ảnh của con cá chính là cái thớt
Có lẽ chất đồng quê lãng mạn nhưng ẩn chứa nhiều trăn trở của Exenhin cũng ảnh hưởng phần nào trong nhiều sáng tác của Trần Quang Quý? Thơ Trần Quang Quý chưa bao giờ thôi hết trằn trọc, bởi thế cuộc chẳng bao giờ hết những vấn đề day dứt nghĩ suy, cũng như thơ ca luôn cựa mình đòi đổi mới.
Hay khi tôi viết về cái lưỡi điêu ngoa, “Chiếc lưỡi mặc chiếc quần trễ rốn”, người ta cũng lại chế nhạo… thực tâm, đây mới chính là những phát hiện, cải cách của một người thơ không mệt mỏi - Trần Quang Quý. Ngoài thơ, Trần Quang Quý đặc biệt mê say thể thao, chơi một đôi môn thể thao vào những ngày rảnh và không để lỡ bất cứ một trận bóng đá quyến rũ nào trên truyền hình, dù diễn ra vào lúc nửa đêm.
Tập thơ mới nhất, giành giải thưởng của Hội Nhà văn chả hạn. Quê nhưng không Mùa Trần Quang Quý cho rằng, anh sáng tác sung sức nhất trong mười năm trở lại đây, thành quả là những tập thơ nối nhau ra đời: “Giấc mơ hình chiếc thớt” (2003), “Siêu thị mặt” (2006), “Cánh đồng người” (2010), “Màu tự do của đất” (2012).
Nhắc chuyện yêu đương của Trần Quang Quý mới thấy cái lợi của người làm thơ. Bùi ngùi thú nhận: “Ở nước mình chẳng ai sống được bằng nghề làm thơ”, vậy mà cái nghề “chết đói” ấy đôi khi cũng mang lại “món hời” chẳng thể quy ra vật chất. TS Nguyễn Đăng Điệp khen Trần Quang Quý không muốn lặp lại những nẻo đường của người khác đã đi, còn thi sĩ Nguyễn Thụy Kha thì “văn vở” hơn khi viết: “Trong cuộc Olympic thơ Việt đầu thế kỷ mới, cung thủ Trần Quang Quý với độ căng của dây cung triết lý, với sự nhọn của thi ảnh, với sự tự tin của xúc cảm đã bắn tới đích của sự mới mẻ, bằng những câu thơ mũi tên bay theo giai điệu du ca để tạo thành cõi lạ”.
“Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt”, nhưng nhìn anh chẳng thấy miền bình yên nào. Hơi đâu mà… cãi Người trong giới đều biết Trần Quang Quý sở hữu thứ chẳng ai thèm tỵ nạnh: thị phi.
Cãi thì chẳng cãi nhưng bất bình cũng chẳng theo đó mà tiêu tan: “Người ta cũng có tài cũng cảm nhận được thơ tôi, song lại cố đổi trắng thay đen, ngẫm mà buồn”. Anh đáp: “Vai đạt nhất và lộ nhất chính là mặt tôi”. Không nhận mình đào hoa nhưng thi sĩ cũng từng được một số chị em tỏ tình. Trần Quang Quý biết ở đằng sau có kẻ “đánh” mình nhưng anh có lý do riêng, để không “đánh” lại: “Hơi đâu mà… cãi”.
Có nhà phê bình thích câu: “Mọi vật đều có một trật tự/Chỉ ý nghĩ là tự do”. Có những câu thơ tình khiến tác giả “Bên kia sông Đuống” phải rơi nước mắt khi đọc: “Anh nghèo lắm có gì đâu ngoài sách/Có gì đâu gia tài chẳng ngoài em/Ô cửa hẹp mà trời thăm thẳm quá/Một ngôi sao thả lỏng giữa xa mờ”.
Cùng với thời gian thơ Trần Quang Quý càng giàu thuyết giáo, chiêm nghiệm. Hay khi tôi viết: “Những ngôn từ chưa mọc râu/Những bào thai thời cuộc chết yểu” thì người ta “vặn”: “Đối với Trần Quang Quý hiện giờ ngôn ngữ cũng… có râu”. Hỏi Trần Quang Quý có chấp nhận với “vốn liếng” tích lũy được qua thời kì? Nhận được câu trả lời không có gì “đột phá”: “Khát khao là khôn xiết nhưng tôi ưng ý với những gì mình có”.
Chẳng thể nói, tuốt thị phi đều từ trên giời rơi xuống (nói thế oan cho giời). “Người quê đi đến chỗ nào chả quê”, chắc Trần Quang Quý ngẫm từ mình mà viết vậy. Anh thuộc hàng may mắn vì “thi hứng” đột nhập đều đều, không bỏ rơi giữa chừng, giữa đoạn.
Nhưng đúng là cũng có khi Trần Quang Quý bị… oan. Nông Hồng Diệu. Tuy ít nhưng đượm. Trong những thời điểm long đong của cuộc đời, cũng từng có lúc Trần Quang Quý ngỡ mình… như cá. Nếu chỉ nói, “Màu tự do của đất” thua “Giấc mơ hình chiếc thớt” thì cũng chẳng có gì tranh cãi, bởi đó là quyền thẩm thấu của kẻ tiếp nhận.
Những câu thơ kiểu này không dễ dàng viết ra nhưng có thể nhiều người cũng viết được, tôi chắc độc giả sẽ lưu luyến những câu thơ đẫm tình quê của Trần Quang Quý hơn: “Cổ tích làng tôi tắm ở cầu ao/Em cứ thả trắng ngần trăng ướt/Tôi vục xuống lòng tay như hứng được/Một làn hương bồ kết bay hờ” hay “Lớp gạch già lõm mặt/Cánh cổng lăn kẽo kẹt đời người”… Ngỡ mình… như cá Trần Quang Quý có hai con trai, không theo nghiệp thơ ca của bố.
Cái vẻ thô nháp lồ lộ thật khó lọt qua vòng kiểm duyệt của chị em ưa hình thức.